Vùng Đồng bằng sông Cửu Long với đặc điểm hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt và để di chuyển trong điều kiện địa hình đặc thù nơi đây, người dân đã tạo, cải tiến các phương tiện di chuyển trên sông với nhiều kiểu loại và tên gọi khác nhau.
Ngoài các phương tiện có kích thước và tải trọng lớn lưu thông ở các sông lớn như ghe, tàu, phà. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động người ta phân chia thành những loại khác nhau.
Xuồng ba lá
Mỗi khi nhắc về miền Tây, hình ảnh về chiếc xuồng nhỏ với cái tên lạ nhưng dễ nhớ này để lại trong lòng du khách, người dân nhiều kỉ niệm.
Xuồng ba lá hay thuyền tam bản là một loại thuyền gỗ có hình dáng nhỏ, gọn dễ luồn lách trên những con mương, con rạch nhỏ, đồng thời cũng có thể dễ dàng ra ngoài sông lớn.
Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Để cho chiếc xuồng được giữ chắc, người ta thường dùng những thanh gỗ cong tạo thành khung, giống như khung hình xương sườn con cá. Bộ khung này có tác dụng giữ chắc các tấm ván lại với nhau để chịu được sức ép của nước từ bên ngoài tác động vào, cố định thân chiếc xuồng, giúp cho xuồng không bị biến dạng. Phía dưới các thanh cong người ta thường khoét những cái lỗ hình bán nguyệt (người dân ở đây gọi là lỗ lù), giúp cho các khoang có thể thông nước với nhau để tiện trong việc tát nước khi xuồng có nước do bị tác động trong lúc di chuyển.
Phần đầu và phần đuôi đều có hình nhọn giống nhau, nhờ vào sự giống nhau đó nên xuồng ba lá có tính linh hoạt cao hơn so với các loại tàu, ghe và xuồng khác. Với đặt thù địa hình kênh rạch chằng chịt, nhưng nhỏ, giao thông đường bộ kém phát triển thì chiếc xuồng là loại phương tiện tối ưu và phù hợp với điều kiện bà con miền Tây.
Có thể nói “xuồng ba lá” là hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng cho người dân vùng đất Nam Bộ. Là phương tiện có khả năng di chuyển nhanh ngay cả ở nơi nước cạn bởi diện tích mặt tiếp xúc với nước nhỏ làm hạn chế tối đa sức cản của nước.
Người ta dùng xuồng để đi lại cũng như trong đời sống và quá trình lao động sản xuất: di chuyển (đám tiệc, đi học, thăm hỏi,…), thăm câu, giăng lưới, vận chuyển sản vật khai thác được ở đồng ruộng hay là phương tiện để buôn bán.
Tắc ráng hay còn gọi là vỏ lãi (vỏ vọt)
Là một loại thuyền nhỏ dáng hình thoi, thường được làm bằng gỗ hoặc bằng nhựa composite và có gắn động cơ máy đuôi tôm ở phía sau. Là phương tiện di chuyển chủ yếu và rất được phổ biến ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, nhất là vào mùa nước nổi.
Võ lãi
Vỏ lãi trên sông ở miền Tây được người dân xem như chiếc xe gắn máy trên đất liền. Người miền Nam đặt tên là vỏ lãi vì thấy nó có thân hình dài như con lãi. “Vỏ” là vì để phân biệt với phần ruột, ý chỉ là chiếc máy đuôi tôm chạy bằng xăng, động cơ này giúp vỏ lãi chạy nhanh, được sản xuất ở Đức hoặc Nhật Bản.
Vỏ lãi là phương tiện thon gọn, giúp người dân miền Tây dễ di chuyển trên kênh rạch chằng chịt hay vào những chỗ nhiều khu vực có nhiều lau sậy, cây cỏ.
Tắc ráng
Tắc ráng nguyên gốc xuất phát là chiếc vỏ lãi.
Nhận thấy chiếc vỏ lãi còn có nhiều bất cập như thân xuồng còn quá rộng, mũi còn khá thấy nên khi di chuyển còn bị sức cản của nước, làm xuồng đi với vận tốc chậm. Nên ông ông Tiêu Văn Sum (hay còn gọi là Ông Năm Cải hay ông Chín Sum) đã thử tìm hiểu và cải tiến như làm thân xuồng nhỏ, mũi hẹp lại và vát lên cao. Ông dùng sơn sơn một lớp ở dưới lườn xuồng để độ ma sát giữa thân xuồng và nước giảm.
Kết quả là chiếc xuồng – vỏ lãi của ông cải tiến có tốc độ chạy nhanh hơn các xuồng máy đuôi tôm có cùng công suất.
Bên cạnh đó, chiếc vỏ lãi cải tiếng này lại có thể vượt khỏi vùng nước nông, nước cạn, vùng quanh, uốn khúc, vùng hẹp rất linh hoạt và nhanh. Ông đặt cho chiếc xuồng – vỏ lãi cải tiến của mình là Tắc Ráng.
Tắc Ráng trong đời sống người dân miền sông nước. Vào mùa nước nổi, chiếc tắc ráng cũng là phương tiện để người dân đi đánh lưới, bắt cá, hái bông súng, bông điên điển…Đặc biệt, người dân có thể chuyên chở nông sản, trái cây, đưa học sinh đến trường, đưa rước dâu, đám cưới… cũng bằng tắc ráng.
Hồng Thắm