Kỳ lạ ngôi làng nói “tiếng lóng” độc đáo nhất ở Hà Nội, cần phải có người phiên dịch mới hiểu được

Trần Lâm 190 lượt xem 5 Tháng Năm, 2023

 

f3

“Mật ngữ” làng Đa Chất

Nằm giữa ngã ba sông Lương và sông Nhuệ, làng Đa Chất bình yên như bao làng quê nông thôn miền Bắc khác. Theo sự chỉ dẫn, tôi may mắn gặp được ông Nguyễn Văn Sớm, 85 tuổi, quê gốc ở làng Đa Chất. Sinh ra và lớn lên tại ngôi làng này, ông Sớm là một trong hai người cao tuổi nhất làng Đa Chất, đến nay còn nắm được nguyên vẹn thứ ngôn ngữ riêng biệt không nơi nào có.

“Có nhát nóng ngoại về tõi rực?”

Ông Sớm nói với tôi. Hoá ra, câu đó có nghĩa là “Cháu ở cơ quan nào về đây?”.

Người đàn ông tiếp tục nhìn tôi bảo: “Ngáo nhát còn chớt” và “Nhát thít mận”. Nếu như ông Sớm không dịch lại, hai câu trên có nghĩa là “Cháu nhìn còn trẻ” và “Cháu uống nước”, tôi vẫn ớ ra chưa hiểu ông vừa nói gì. Ông Sớm cười:  “Đó là một thứ ngôn ngữ riêng của làng, không nơi nào có thể biết và nói được”.

f4
Ông Sớm kể về “tiếng lóng” của làng Đa Chất

Theo ông Sớm, “tiếng lóng” làng Đa Chất gắn liền với nghề đóng cối của làng, từ khi nghề làm cối được hình thành thì thứ ngôn ngữ này cũng bắt đầu xuất hiện.

“Khi nghề đóng cối trở thành nghề gia truyền của làng Đa Chất, “tiếng lóng” trở thành thứ tiếng riêng biệt của làng. Đó là ngôn ngữ của các thợ làm cối khi đi đóng cối thuê trên khắp cả nước, thợ cả truyền cho thợ phó, truyền từ đời này sang đời khác. Khi nghề đóng cối dần mai một vì người ta dùng nhiều máy móc, phương tiện hiện đại, ngôn ngữ của riêng những người thợ cối vẫn được giữ lại”, ông Sớm cho hay.

Ông Sớm dẫn các ví dụ: “Người thợ chính muốn thợ phụ đi chặt tre bổ củi thì sẽ nói “xảo sởn quần ớt, quất ông lông đi”. Khi thấy người thợ phụ làm sai thợ cả sẽ nhắc “mày xấn táo rồi, bệt ngáo kìa” (mày làm lỗi rồi, nhà chủ nó trông thấy kia kìa)”.

Thợ đóng cối làm việc ở nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, cần phải có cách xã giao tốt. Để có thể vừa bảo vệ mình, vừa không mất lòng thiên hạ, lại giữ được nếp làng thế nên chúng tôi giao tiếp với nhau chủ yếu bằng “tiếng lóng”.

f5
Nghề làm cối truyền thống của làng Đa Chất

Theo ông Sớm, “tiếng lóng” làng Đa Chất được sử dụng tùy vào từng trường hợp. Nếu như không có người lạ đến mà chỉ có người trong làng thì người dân nơi đây sẽ không nói tiếng của mình, trừ khi các cụ ngồi nói chuyện, uống nước chè ôn lại những ngày tháng đi tứ phương đóng cối.

Chị Nguyễn Thị Vân, 40 tuổi, người làng Đa Chất chia sẻ, bây giờ người dân vẫn sử dụng “tiếng lóng” khi có người lạ đến làng. Thấy người lạ có ý đồ không tốt, có những thói xấu, “mắt la mày lém” hay những hành động cử chỉ thô tục… thì người trong làng sẽ nói với nhau để mọi người cảnh giác.

Giữ gìn “tiếng lóng” của làng

Theo chân ông Nguyễn Văn Sở, tôi đến ngôi đình làng Đa Chất gặp ông Nguyễn Ngọc Đoán, 81 tuổi, người trông coi đình làng Đa Chất. Ông Đoán là người thứ 2 trong làng còn thuộc nguyên vẹn “tiếng lóng” truyền thống từ thuở xa xưa.

f6
Ông Đoán – người thứ 2 trong làng còn thuộc nguyên vẹn “tiếng lóng” truyền thống

Thật ra làng còn 4 đến 5 cụ biết hết “tiếng lóng” nhưng do có tuổi nên các cụ không còn minh mẫn nữa”, ông Đoán nói. Ông Đoán là người duy nhất còn giữ cuốn được gọi “Thần phả” của làng, đó chính là cuốn sách ghi lại ngôn ngữ đặc biệt và lịch sử nghề truyền thống đóng cối của nơi này. Cuốn sách có tên “Văn hóa dân gian làng Đa Chất” của tác giả Chu Huy – Nguyễn Dấn.

Hiện nay cuốn sách đã được đưa sang Đức để nghiên cứu, song ông Đoán vẫn là người nắm giữ từng câu chữ trong cuốn sách đó. “Từ xưa thứ ngôn ngữ này được lưu lại nhờ truyền miệng, còn cuốn sách này chúng tôi để giữ lại cho thế hệ sau”, ông Đoán cho hay.

Lịch sử làng nghề làm cối tre làng Đa Chất được truyền từ đời này qua đời khác và ngôn ngữ “lạ” của làng cũng vậy. Cuốn “Thần phả” ghi lại cách phát âm được phiên âm của hơn 200 từ “lóng” thông dụng, ông Đoán giải thích rằng “tiếng lóng” được nói theo cách cấu tạo câu tiếng Việt bình thường, ghép các từ lại với nhau cũng có chủ –  vị ngữ.

f7
“Tiếng lóng” của làng Đa Chất đã tồn tại từ lâu đời

Ví dụ “nhát choáng quá” (cô gái xinh quá) hoặc nói tiếng lóng xen lẫn tiếng Việt. Ví dụ “anh ra tớp cho tôi cái vẫy” (anh ra lấy cho tôi cái quạt).

Chúng tôi hỏi ông Đoán, hiện nay có cần thiết dùng “tiếng lóng” hay không, ông Đoán quả quyết: “Có chứ, lên tàu xe có kẻ nhăm nhe móc túi, chúng tôi sẽ thông báo cho người làng biết là “ón, ón mẹ móm nó tớp hách” (này, này cẩn thận kẻo nó móc túi đấy).

Ông Dương Ngọc Hổ, Phó chủ tịch UBND xã Đại Xuyên, huyện Phú Xuyên chia sẻ: “Trong các cuộc họp chi bộ ở thôn, để “tiếng lóng” phổ biến hơn với người dân, xã sẽ đưa ngôn ngữ này vào cuộc họp”.

f8
Hiện tại, làng Đa Chất vẫn đang cố gắng gìn giữ tiếng lóng truyền thống

Theo ông Hổ, hiện ông Nguyễn Ngọc Đoán đã tập hợp những người thợ cối năm xưa để ghi lại những câu, từ “tiếng lóng” quen thuộc. Ông Đoán cũng đang là thầy dạy “tiếng lóng” làng Đa Chất cho thế hệ trẻ trong làng để con cháu không quên nếp truyền thống, phong tục của quê hương.

“Tiếng lóng” của làng cối Đa Chất cũng được coi là một nét văn hóa độc đáo, có thể giúp người làng bảo vệ lẫn nhau!

 

Cổng làng yêu thương

 

 

 

 

 

Bài viết cùng chủ đề:

    Dấu xưa mở cõi đất phương Nam: Cổ tích Miếu Hội Tân Châu

    Trong dân gian, có lẽ do chịu ảnh hưởng tục của người Hoa, người ta gọi ngôi đình làng là miễu, có nơi gọi là miếu võ, thần từ hoặc cổ miếu… Miếu thờ tứ vị vương Giới thiệu cho chúng tôi xem hình ảnh ngôi miếu bằng tre lá ngày xưa, ông từ giữ...
    1 7

    Dấu xưa mở cõi đất phương Nam: Ngôi đình thờ vua Lê, chúa Nguyễn

    Dưới bóng những cây sao cổ thụ và ở ngay ngã ba sông, đình Bình Phú (H.Cai Lậy, Tiền Giang) có vị trí phong thủy ít ngôi đình nào trong vùng sánh được. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di sản chứng tỏ là một trong những ngôi đình có niên đại xưa nhất. Thờ...
    8 2

    Dấu xưa mở cõi đất phương Nam: Dấu xưa ở đình Ba Vát

    Đình Ba Vát còn gọi là Phước Mỹ Trung, nơi lưu dấu chứng tích trận đánh lịch sử xảy ra vào thế kỷ 18 ở thôn Phước Hạnh, làng Phước Mỹ Trung, H.Tân An, Vĩnh Long (nay thuộc H.Mỏ Cày Bắc, Bến Tre). Những dấu tích lịch sử Trải qua hàng trăm năm, chợ Ba...
    1 4

    Dấu xưa mở cõi đất phương Nam: Dấu ấn thời khai hoang lập ruộng

    Bửu Hương tự, còn gọi là đền thờ Quản Cơ, tọa lạc ấp Bờ Dâu, xã Thạnh Mỹ Tây, H.Châu Phú (An Giang). Người địa phương quen gọi là dinh Đức Cố Quản. Đây là cơ sở tín ngưỡng của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, cũng là nơi thờ tự các vị anh hùng...
    2 3

    Dấu xưa mở cõi đất phương Nam: Mỹ Tho cũ, Định Tường xưa

    Sau khi đồn Kỳ Hòa thất thủ, đô đốc Charner cho mở các cuộc hành quân lấn chiếm ra vùng lân cận, trong đó có Mỹ Tho. Họ tới Mỹ Tho qua ngã kinh Bưu Điện (Arroyo de La Poste) và sông cửa Tiểu. Cồn Rồng, còn gọi là Long Châu Ngày 26.3.1861, Charner cử...

Được quan tâm