Có thể nói Đình làng là công trình kiến trúc cổ Việt Nam bảo tồn được những đặc điểm nghệ thuật kiến trúc độc đáo, tính dân tộc đậm đà sắc thái dân gian.
Đình làng là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của làng, sau đó thêm vào chức năng thờ thành hoàng. Về sau Đình còn là trụ sở hành chính của làng xã: Phân chia công điền thổ, giải quyết tranh chấp, thu thuế, ăn khao…
Lược sử
Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng: Đình(亭 ) là cơ quan hành chính cấp cơ sở đời Tần, Hán, nhà Hán chia đất cứ mười dặm (khoảng 5km) là một đình, mười đình là một làng, nên người coi việc làng là đình trưởng 亭長, tức lí trưởng bây giờ.
Từ Đình này thuộc bộ Đầu, để phân biệt với từ Đình thuộc bộ khác, tuy đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ Đình này ghép 1 số từ khác như:
Quá nhai đình: Cái đình, bên đường làm nhà cho khách qua lại trọ .
Lương đình: Kiến trúc có mái nhưng không có tường chung quanh, thường cất ở vườn hoa hoặc bên đường, cho người ta ngắm cảnh hoặc nghỉ .
Vọng đình: Chòi canh gác dùng để quan sát tình hình quân địch.
Đình làng Việt: Là nơi sinh hoạt cộng đồng của 1 làng, vua quan khi ngang qua làng cũng nghỉ chân tại đây, sau đấy còn được treo các pháp lệnh vua ban thời Lê sơ, có thời điểm như thời Trần thêm chức năng thờ cúng Phật, dần dần nó phát triển thành 1 loại hình kiến trúc công cộng dân gian cho các hoạt động của làng xã vừa thờ cúng Thành hoàng.
Thế kỷ 16, thời Mạc đã gây dựng được nhiều Đình lớn như Đình Thụy Phiêu – Ba Vì, Tây Đằng- Ba Vì-Hà Tây, Lỗ Hạnh- Bắc Giang. Từ thời Lê trung Hưng thế kỷ 17, kiến trúc đình làng phát triển rầm rộ khắp các làng xã với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và sáng tác tập thể. 1 số đình thời kỳ này như Đình Thổ tang- Vĩnh phúc, Đình Hương Canh – Vĩnh Phúc, Đình Hoàng Xá – Hà Tây, Thổ Hà , Phù Lão…
Thế kỷ 18 – thời Lê mạt việc xây dựng đình làng có giảm sút do hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn xuất hiện những đình quy mô, trang trí tinh xảo như Đình Chu Quyến , đình Đình Bảng- Bắc Ninh, Nhân Lí- Hải Dương, Thạch Lỗi – Hải Dương.
Thế kỷ 19, dưới thời vua Gia Long, cũng xây dựng một số đình lớn như Tam Tảo- Hà Bắc, An Đông – Quảng Ninh… nhưng về kiến trúc và điêu khắc đã giảm sút đi nhiều. Dưới thời vua Minh mạng thì chuyển sang kết cấu xây vôi gạch, ít dùng gỗ, chỉ có ở miền núi dùng gỗ chủ yếu.
Bố cục tổng thế
Vị trí, Địa điểm:
Gắn liền với khu ở của dân làng, thuận đường nối với các ngõ, thôn, thế đất thoáng đãng, tuân theo nguyên tắc địa lý phong thủy, phía trước thoáng đãng nhìn ra sông nước, có hồ nước tự nhiên hoặc nhân tạo theo nguyên tắc “Tụ thủy”. Thường chọn hướng Nam, Đông Nam.
Bố cục và các thành phần kiến trúc:
Đình có thể là một công trình độc lập hay một quần thể kiến trúc cũng có khi nằm cạnh chùa thành một quần thể lớn. Các công trình được bố cục đối xứng qua trục chính chạy dài. Các công trình thành phần: Hồ nước, Nghi môn, Nhà Tiền tế, Đại Đình – hậu cung, 2 bên có thêm nhà hành lang hữu, tả vu đối xứng 2 bên. Ngoài ra phía trước Đình làng thường có nhiều cây xanh, sân rộng để có thể tập hợp đông người những ngày lễ hội.
Đại đình:
Là nơi hành lễ sinh hoạt công cộng, hành chính nên cần không gian và diện tích lớn, trang trọng, bề thế. Các Đại đình thường có 5,7 gian có trái hoặc không trái. Mái Đại đình có 2 dạng: Dạng có 4 mái và dạng có 2 mái, tường xây bịt 2 trái ( loại này niên đại muộn hơn). Những Đình có niên đại sớm thường không có tường hay vách gỗ bao quanh. Đại đình ban đầu có dạng chữ Nhất, về sau hậu cung phát triển lùi phía sau tạo thành hình chữ Đinh, Công. Có những ngôi đình có sàn gỗ, thường cách mặt đất khoảng 50-60 cm. Gian chính giữa thường không có sàn còn gọi là gian lòng thuyền. Gian này được coi là lối của Thánh hay Thành hoàng làng được thờ trong đình và nó cũng là nơi để thực hiện các nghi lễ thờ cúng. Sàn ở các gian đối xứng 2 bên, sàn có các mức cốt, cốt thấp nhất là dành cho các bô lão và chức sắc trong làng. Họ sẽ ngồi đối diện qua gian lòng thuyền. Đây điều rất bất ngờ theo cách nghĩ thông thường thì các cụ chức sắc và bô lão thường ngồi chiếu trên trong các bữa tiệc nhưng ở đây họ lại ở cốt sàn thấp nhất, những người khác sẽ ở phía sau. Điều này cho thấy rõ công năng hội họp của đình.
Hậu cung:
Là nơi thờ Thành hoàng làng, giữ các vật thiêng, không gian nhỏ nhưng kín đáo, trang nghiêm thường được đóng không cho mọi người vào. Ban đầu thường nằm gian chính giữa, phía sau từ cột Cái và cột quân của Đình. Sau này phát triển thành dạng chuôi vồ, lùi ra sau Đại đình tạo thành chữ Đinh hoặc nối với Đại đình bằng 1 nhà cầu gọi là ống muống tạo thành hình chữ Công. Thành hoàng thường là nhân thần có công với làng hay địa phương như Lí Bí, Triệu Quang Phục, Trần Hưng đạo hay nhân vật theo truyền thuyết như Thánh Tản viên, hoặc có khi là ông tổ dòng họ, nghề thủ công truyền thống.
Tiền tế ( phương đình):
Thường có kích thước và quy mô nhỏ hơn Đại đình, mặt bằng hình vuông và không có cửa vách bao quanh, có 2 tầng mái. Phải đến cuối thế kỷ 17 mới xuất hiện nhà Tiền tế và xuất hiện nhiều vào thế kỷ 19. Cùng với sân đình, các hành lang Tả vu, Hữu vu, … nhà Tiền tế là bộ phận nối tiếp giữa kiến trúc Đình và ngoại cảnh tổng quan, khoáng đạt rộng mở để dễ dàng tập hợp quần chúng đông đảo tiến hành rước lễ hoặc giải trí vui chơi.
Trong dân gian, có lẽ do chịu ảnh hưởng tục của người Hoa, người ta gọi ngôi đình làng là miễu, có nơi gọi là miếu võ, thần từ hoặc cổ miếu… Miếu thờ tứ vị vương Giới thiệu cho chúng tôi xem hình ảnh ngôi miếu bằng tre lá ngày xưa, ông từ giữ...
Dưới bóng những cây sao cổ thụ và ở ngay ngã ba sông, đình Bình Phú (H.Cai Lậy, Tiền Giang) có vị trí phong thủy ít ngôi đình nào trong vùng sánh được. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di sản chứng tỏ là một trong những ngôi đình có niên đại xưa nhất. Thờ...
Đình Ba Vát còn gọi là Phước Mỹ Trung, nơi lưu dấu chứng tích trận đánh lịch sử xảy ra vào thế kỷ 18 ở thôn Phước Hạnh, làng Phước Mỹ Trung, H.Tân An, Vĩnh Long (nay thuộc H.Mỏ Cày Bắc, Bến Tre). Những dấu tích lịch sử Trải qua hàng trăm năm, chợ Ba...
Bửu Hương tự, còn gọi là đền thờ Quản Cơ, tọa lạc ấp Bờ Dâu, xã Thạnh Mỹ Tây, H.Châu Phú (An Giang). Người địa phương quen gọi là dinh Đức Cố Quản. Đây là cơ sở tín ngưỡng của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, cũng là nơi thờ tự các vị anh hùng...
Sau khi đồn Kỳ Hòa thất thủ, đô đốc Charner cho mở các cuộc hành quân lấn chiếm ra vùng lân cận, trong đó có Mỹ Tho. Họ tới Mỹ Tho qua ngã kinh Bưu Điện (Arroyo de La Poste) và sông cửa Tiểu. Cồn Rồng, còn gọi là Long Châu Ngày 26.3.1861, Charner cử...