“Xa Yên Thổ, Khổ Đức Hạnh” là câu nói ví von về khó khăn, gian khổ ở xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
Từ trên những đỉnh núi cao, nơi sinh sống của đồng bào Mông, Tày, Nùng, Lô Lô…hàng chục năm nay, những người dân trên đỉnh Chè Lỳ A, Lũng Mần…vẫn đều đặn băng qua con đường đất ngoằn ngoèo trên triền núi đi lấy nước. Mỗi khi trời mưa, các cô giáo cắm bản nhanh trí nghĩ ra cách dùng bao tải dứa lót nilon để tích trữ nước phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày.
Dưới cái nắng 40 độ ở nơi bao quanh toàn đá vôi, đá tai mèo, cô giáo Nông Thị Lưu – giáo viên điểm trường Chè Lỳ A, xã Bảo Lạc, huyện Bảo Lâm phải băng qua con đường ngoằn ngoèo bụi mù cách nơi ở hơn 2km để tới mỏ nước. Nước trong bể còn chưa đầy nửa gang tay, cô giáo Lưu phải chui qua miệng bể, từ từ đưa can xuống, nhẹ nhàng chắt từng ca nước cho đến khi đầy can 20 lít. Cô Lưu chia sẻ nước là thứ vô cùng quý giá với cô và trò ở Chè Lỳ. Mỗi khi trời nắng, con đường bụi mù, hầm hập oi ả khiến hành trình đi lấy nước ở nơi gian khổ nhất của tỉnh Cao Bằng đã xa lại càng xa hơn.
Cô Lưu tâm sự, nhiều lúc cũng nghĩ đến việc rời xa nơi này vì cuộc sống quá khó khăn, nước sinh hoạt thiếu thốn nghĩ cực và tủi lắm nhưng lại nghĩ đến các em học sinh, đành gạt bỏ ngay suy nghĩ đó: “Ở Chè Lỳ A, dân khổ về nước, lúc nào mưa dân hứng nước mái nhà dùng, dạo này hạn hán, dân phải đi chở nước, gánh nước ở xa, thậm chí là không có đủ còn tranh nhau lấy nữa. Đi hơn 2 cây số mới có nước, ai có xe máy thì lấy xe máy chở, ai không có xe máy thì đi bộ. Đi xuống dưới xóm chỉ có 1 mỏ nước chảy nhỏ nhỏ hứng 1 xô phải 2-3 tiếng mới đầy. Cách đây mấy năm, nhà nước có đầu tư xây dựng 1 cái bể giữa xóm, nhưng nguồn nước chảy ít, nhiều hộ cạnh nguồn dùng chung nữa nên nước không chảy đủ về xóm”.
Để có thêm nguồn nước dự trữ sinh hoạt hàng ngày, các cô giáo ở điểm trường Chè Lỳ A đã nghĩ ra sáng kiến tích trữ nước trong những bao tải dứa lót nilon. Một hệ thống ống dẫn đơn giản được kéo vào căn phòng chưa đầy 20m2. Từ nơi ngủ, nơi làm việc đến căn bếp nhỏ, những gì có thể chứa được nước đều được các cô tận dụng.
Cô giáo Trần Thị Vực vui vẻ bảo rằng “trong cái khó đành ló cái khôn”, ở đây toàn phụ nữ nên việc đi lấy nước là cả hành trình gian nan, vì vậy đành phải nhanh trí nghĩ ra cách tích trữ nước cho đỡ vất vả.
Bám trường, bám bản được 7 năm, cô giáo Hoàng Thị Điệu nghĩ lại thời gian đầu đến đây thấy cuộc sống gian nan vì điều kiện sinh hoạt thiếu thốn hơn những gì bản thân cô tưởng tượng. Nhưng cô giáo trẻ này đã quyết tâm bám trụ ở nơi xa nhất, khó nhất, khổ nhất của tỉnh Cao Bằng với ước mong mang con chữ cho những đứa trẻ trên đỉnh Chè Lỳ A. Hơn thế nữa, ước mơ lớn nhất của cô Điệu và cũng là ước mơ của tất cả người dân trên đỉnh Chè Lỳ A là nơi đây sớm có dự án nước sạch để cô trò và người dân không còn đau đáu, khổ sở vật lộn với từng giọt nước được coi là “quý hơn vàng”.
“Ở đây vất vả về nguồn nước quá, không có đường nước đến tận nơi thì các cô phải tận dụng các bao rồi tận dụng các thùng để chứa nước. Khi trời mưa thì kể cả đêm cũng phải thức cả đêm để hứng nước, tận dụng từng giọt nước lúc trời mưa để sử dụng lâu dài. Nếu lâu ngày mà trời không mưa thì phải xuống khe, dùng xe máy để chở các can nước màng về sử dụng. Giặt giũ phải xuống khe suối để giặt giũ chứ không dám sử dụng nước tại phòng. Nước tích trữ chỉ để sử dụng cho sinh hoạt như tắm và đun nấu. Tôi mong muốn có thể có dự án nào đấy để có nguồn nước dẫn đến điểm trường, xóm để dân ở đây cũng như các thầy cô, các em học sinh đến trường có nguồn nước sạch để sử dụng để chúng em yên tâm công tác hơn và học sinh đi học cũng đỡ vất vả”, cô Điệu chia sẻ.
Theo anh Triệu Văn Thắng, ở Chè Lỳ, hộ dân nào có điều kiện mới có nhiều lu chứa nước trong nhà. 11 cái lu nước dưới căn nhà sàn dùng để hứng nước mưa của anh Thắng như 1 tài sản quý giá: “Bây giờ gia đình dùng 11 cái bể lu hứng nước mưa thôi, bà con trong xóm đi gánh nước dưới mỏ. Đường đi dốc, đi gánh thôi, đường xá đi lại khó khăn. Đường đất thôi, mùa mưa xe không đi lại được. Mỗi lần gánh được 2 xô bé thôi, cả đi về mấy cỡ 30 phút”.
Không chỉ ở Chè Lỳ A, con đường tới đỉnh Lũng Mần cũng khô cằn gấp vạn lần bởi thiếu nước. Ở nơi này người ta gọi chung những đỉnh núi là Phja Phạ – có nghĩa là núi trời, những dãy núi vút cao xuyên thẳng lên những đám mây, quanh năm không nhìn thấy đỉnh. Khi đặt chân tới đây, mới hiểu được trọn vẹn câu nói “sống trên đá, chết vùi trên đá” khắc họa cuộc sống của đồng bào nơi đây từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi chỉ gắn liền với đá, với đất cằn khô.
Vừ Mí Già, trưởng xóm Lũng Mần cho biết 90 hộ dân ở Lũng Mần cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu đất canh tác, thiếu nước sinh hoạt, muốn xuống trung tâm xã phải đi hơn 20km đường núi, người lạ không quen đường cũng chẳng biết khi nào tới nơi.
Trưởng xóm Vừ Mí Già bảo, từ Chè Lỳ A sang đến Lũng Mần cũng mất cả tiếng đồng hồ, đây là những nơi ở Cao Bằng ít người đặt chân đến. Người dân chỉ mong trong tương lai không xa, họ được đi những con đường trải bê tông, có nước sinh hoạt, cuộc sống khấm khá hơn, còn giờ thì… trưởng xóm Vừ Mí Già ngập ngừng. “Ở đây hộ nghèo 100%, cái gì cũng thiếu, ăn cũng thiếu, bây giờ thì nước vẫn không đủ”.
Rời Chè Lỳ A, Lũng Mần…nơi được gọi là núi trời, câu nói của trưởng xóm Vừ Mí Già cứ vương vấn trong tôi suốt hành trình dọc biên giới Cao Bằng. Và rồi cả những hình ảnh các cô giáo cắm bản, đồng bào Mông, Tày, Nùng, Lô Lô tất tả đi trên con đường bên triền núi, xách chiếc can nhựa đựng nước cứ mãi xuất hiện không thôi. Biết đến bao giờ, nước về đến nơi tận cùng khó khăn của mảnh đất phên dậu Cao Bằng. Hay “nước” vẫn chỉ là nỗi ám ảnh của cô trò, người dân sống trên đỉnh núi Chè Lỳ A, Lũng Mần, và rồi giấc mơ, ước vọng về “nước sinh hoạt” của họ vẫn mãi đằng đẵng ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm…/.
Theo VOV